Truyện "Cậu Bé Thông Minh" hay là" Cậu bé láu cá" & những góc khuất cần suy ngẫm
“Cậu bé thông minh” là câu chuyện mang nhiều yếu tố hài hước và tưởng tượng, nhưng xa rời thực tế và chứa đựng các yếu tố hoang đường vớ vẩn khiến trẻ em dễ ngộ nhận về trí tuệ. Những chi tiết trong truyện không mang tính giáo dục tích cực mà chỉ khuyến khích tính lươn lẹo, mánh khóe của nhân vật chính. Các tình huống được xây dựng phi lý đến mức nhảm nhí, hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn. Câu chuyện này, thay vì tôn vinh trí tuệ và sự hiểu biết, lại vô tình cổ xúy tính láo cá, điều hoàn toàn không nên truyền tải tới trẻ em.
BÌNH LOẠN THỜI CUỘC
10/28/202411 phút đọc
Mở đầu chúng ta hãy lướt qua câu truyện gốc một chút:
Truyện gốc:
Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua muốn tìm người tài giỏi, bèn sai một viên quan đi dò la. Viên quan này đã đưa ra những câu đố oái oăm để thu hút nhiều người tham gia, nhưng tiếc là ông vẫn chưa tìm được người nào thực sự thông minh hơn người.
Bỗng một hôm, viên quan tình cờ đi qua một cánh đồng làng, ông nhìn thấy bên vệ đường hai cha con đang làm ruộng, người cha thì đánh trâu cày, người con thì đập đất. Ông đã cho dừng ngựa lại để hỏi han:
Này ông lão, trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Khi người cha còn đang ngẩn người chưa biết trả lời ra sao thì đứa con chừng bảy tám tuổi đã nhanh trí hỏi vặn lại viên quan:
Tôi xin hỏi ông câu này trước. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Nghe thấy đứa trẻ hỏi như vậy, viên quan sửng sốt không biết phải trả lời như thế nào. Ông nghĩ bụng, đây nhất định là nhân tài của nước ta, không phải tìm đâu xa nữa rồi. Nghĩ thế, viên quan quyết định hỏi rõ họ tên, quê quán của hai cha con rồi vội về bẩm báo lên nhà vua.
Nghe viên quan nói như thế, vua lấy làm mừng lắm, nhưng vẫn muốn kiểm chứng thêm cho chắc chắn. Ông bèn sai người ban cho ngôi làng đó ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, rồi ra lệnh phải nuôi để ba con trâu ấy đẻ thành chín con và nộp lại cho vua vào năm sau, nếu không thì cả làng phải chịu tội.
Dân làng nhận được lệnh của vua thì không khỏi lo lắng, không biết phải làm sao. Dù đã họp làng, bàn tán xôn xao nhưng vẫn chưa tìm ra cách gì để giải quyết. Em bé con người thợ cày nghe chuyện liền thưa với cha:
Hiếm khi mới được vua ban lộc, cha hãy thưa với làng ngả thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để cả làng ăn cho sướng miệng. Còn lại một con trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng để làm lộ phí, cha con ta cùng lên đường lo liệu việc này.
- Mày đừng có làm bừa con ạ, thịt ăn hết rồi thì còn lo liệu làm sao được.
Cậu bé vẫn quả quyết:
- Cha đừng lo lắng, cứ để con lo liệu chuyện này, rồi sẽ ổn thôi.
Chiều lòng con, người cha quyết định ra đình để thưa chuyện với làng. Nghe người cha trình bày, dân làng vẫn còn ngờ vực, bắt hai cha con phải làm giấy cam đoan mới cho phép ngả trâu.
Mấy hôm sau, hai cha con chuẩn bị hành lý lên kinh đô. Đến cung vua, cậu bé bảo cha đừng đợi ở ngoài rồi lẻn vào cung nhân lúc mấy tên lính canh không để ý, rồi vào sâu rồng khóc um lên. Vua nghe thấy tiếng khóc, sai lính cho cậu bé vào phán hỏi:
“Cái thằng kia, mày có việc gì mà đến đây khóc?”
“Bẩm đức vua - cậu bé vờ vĩnh đáp - mẹ con mất sớm nhưng cha con không chịu để em bé để con được chơi với em nên con khóc ạ. Mạn phép mong đứa vua phán bảo cha con để con có em chơi cùng ạ.”
Nghe cậu bé nói, cả vua và các quan lại lẫn lính canh đều bật cười. Vua phán bảo cậu bé:
- Cha mày giống đực đẻ làm sao được. Muốn có em thì mày phải kiếm vợ khác cho cha mày.
Em bé bỗng tươi cười đáp lại vua:
- Dạ bẩm vua, vậy sao vua lại ra lệnh cho làng chúng con phải nuôi ba con trâu đực đẻ thành chín con để nộp đứa vua ạ? Giống đực thì đẻ làm sao được!
Vị vua cười đáp lại:
Ta chỉ thử thôi mà. Thế làng chúng bay không biết đường mang trâu với gạo ra mà ăn với nhau à?
Dạ tâu vua, biết là lộc vua ban nên làng chúng con đã làm cỗ ăn mừng rồi ạ.
Vua biết cậu bé này thông minh hơn người, những vẫn muốn thử lần nữa. Đến hôm sau, sứ giả của nhà vua mang đến một con chim và bảo hai cha con phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé liền bảo cha lấy cho mình cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
Ông mang cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe thấy thế thì tâm phục khẩu phục, lập tức sai người ban thưởng hai cha con.
Một nước láng giềng lăm le xâm chiếm bờ cõi của nhà vua, họ đã sai sứ giả mang sang một vỏ ốc dài, rỗng hai đầu và thách đố sâu một sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc. Sau khi nghe xong, cả vua quan và các nhà thông thái đều nhìn nhau, vò đầu bứt tai suy nghĩ mà chưa tìm ra lời giải đáp. Người thì bảo bôi sáp vào sợi chỉ để dễ lọt qua hơn, người thì dùng miệng để hút cho sợi chỉ xuyên qua,...nhưng tất cả đều bất thành. Cuối cùng, vua phải sai người đến hỏi ý kiến cậu bé thông minh.
Em bé nghe xong, không đáp mà chỉ hát một cậu:
“Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...:”
Rồi nói thêm: “Cứ làm theo cách này là được, tôi không cần phải về triều làm gì.”
Viên quan vội trở về bẩm báo với đức vua. Quả nhiên, đúng như lời cậu bé nói, làm theo cách đó thì sợi chỉ đã xuyên qua đường ruột ốc, nước láng giềng cũng phải tâm phục khẩu phục. Kể từ đó, cậu bé được vua phong làm trạng nguyên, được sống ở dinh thự trong hoàng cung gần nhà vua.
Phân tích:
Thoạt nhìn qua thì có vẻ đây là một câu chuyện hay, thích hợp để kể cho trẻ em nghe. Tuy nhiên, khi xem xét suy nghĩ kỹ lưỡng, truyện không chỉ phi lý mà còn có thể gây hiểu lầm nguy hiểm, đặc biệt khi câu chuyện lại trở thành bài học giáo dục dành cho trẻ em. Nội dung truyện cổ xúy tính láo cá, đề cao sự đối đáp mánh khóe hơn là trí tuệ thực thụ, khiến độc giả không khỏi băn khoăn về giá trị thực sự mà câu chuyện mang lại.
Sự lươn lẹo trong đối đáp – dấu hiệu của trí tuệ hay sự láu cá?
Ngay từ phần đầu truyện, chúng ta chứng kiến cảnh viên quan hỏi người cha: “Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?” Cậu bé nhanh nhảu đáp: “Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày mấy đường.” Dường như đây là cách cậu bé đối đáp để giành phần thắng trong cuộc đối thoại, nhưng thực chất, câu trả lời này lại thể hiện sự láu cá và lảng tránh câu hỏi gốc.
Thay vì tập trung vào việc tìm hiểu thực sự hoặc đưa ra một cách lý giải thông minh, cậu bé chỉ đơn thuần phản bác bằng một câu hỏi khác. Điều vô lý hơn nữa là phản ứng của viên quan: “Đây nhất định là nhân tài của nước ta, không phải tìm đâu xa nữa!” Việc đánh giá trí tuệ của một đứa trẻ chỉ dựa trên một câu đối đáp vặn vẹo là điều thiếu cơ sở. Điều này có thể khiến người đọc, đặc biệt là trẻ em, nhầm lẫn rằng láo cá và đối đáp nhanh nhảu là dấu hiệu của sự thông minh.
Mệnh lệnh "trâu đực đẻ" – thử thách vô nghĩa từ nhà vua:
Một chi tiết kỳ quái khác là khi vua ban lệnh bắt dân làng nuôi trâu đực đẻ thành chín con. Đây không phải là một câu đố thử trí thông minh mà là một yêu cầu vô lý và phản khoa học. Trong bối cảnh thực tế, mệnh lệnh này vừa cho thấy sự thiếu nghiêm túc của vua trong việc cai quản đất nước vừa phản ánh sự vô lý của các tình tiết trong câu chuyện. Nếu nhìn từ góc độ giáo dục, thử thách này không những không giúp trẻ em rèn luyện tư duy mà còn có thể khiến trẻ hiểu sai về vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu.
Sự đối đáp của cậu bé và cách ứng xử kỳ lạ của nhà vua:
Khi cậu bé lên kinh đô và đưa ra yêu cầu rằng cha cậu “đẻ” em bé để cậu có em chơi cùng, nhà vua cùng triều thần lại cười đùa và chấp nhận lý lẽ của cậu. Hành động này không chỉ thể hiện sự phi lý mà còn cho thấy sự dễ dãi trong cách ứng xử của vua. Đáng lẽ trong vai trò một vị vua, ông cần phải là người giải quyết những thử thách có tính thực tiễn và đòi hỏi sự khéo léo về mặt chính trị. Tuy nhiên, việc vui vẻ chấp nhận những lời lẽ ngớ ngẩn từ cậu bé thể hiện sự bất hợp lý trong câu chuyện và vai trò của nhà vua trong việc quản lý đất nước.
Thử thách từ nước láng giềng và giải pháp xa rời thực tế:
Khi nước láng giềng đưa ra thử thách luồn sợi chỉ qua ruột ốc, giải pháp dùng kiến để thực hiện nhiệm vụ tuy thể hiện chút hiểu biết về tự nhiên, nhưng lại hoàn toàn không thực tế trong bối cảnh ngoại giao quốc gia. Một tình huống như vậy không thể là bài học đúng đắn để nuôi dưỡng trí tuệ trẻ em, bởi phương thức giải quyết chỉ mang tính tạm bợ và thiếu cơ sở.
Kết thúc phi lý và sự tôn vinh không xứng đáng:
Việc cậu bé được phong làm trạng nguyên chỉ dựa trên vài lần đối đáp là điều không hợp lý. Dù có lanh lợi, một đứa trẻ không thể đảm đương trọng trách lớn như vậy trong triều đình. Quyết định của vua thiếu đi sự suy xét và hoàn toàn không phản ánh đúng thực tế về năng lực cần có của một người để đảm đương các vấn đề quốc gia. Điều này cũng có thể khiến trẻ nhỏ hiểu nhầm rằng chỉ cần chút láu lỉnh và mánh khóe là đủ để thành công, chứ không cần sự cố gắng, rèn luyện.
Kết luận – sự ngộ nhận về giá trị thực sự của trí tuệ:
“Cậu bé thông minh” là câu chuyện mang nhiều yếu tố hài hước và tưởng tượng, nhưng xa rời thực tế và chứa đựng các yếu tố hoang đường vớ vẩn khiến trẻ em dễ ngộ nhận về trí tuệ. Những chi tiết trong truyện không mang tính giáo dục tích cực mà chỉ khuyến khích tính lươn lẹo, mánh khóe của nhân vật chính. Các tình huống được xây dựng phi lý đến mức nhảm nhí, hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn. Câu chuyện này, thay vì tôn vinh trí tuệ và sự hiểu biết, lại vô tình cổ xúy tính láo cá, điều hoàn toàn không nên truyền tải tới trẻ em.
Liên hệ
Địa chỉ
01 Bến Cát, KP.1, P.4, TX.Cai Lậy, Tiền Giang
Liên hệ
123-456-7890
anhbatronghoa@gmail.com